Sự nổi lên của nước Tần Nhà_Tần

Bản đồ thời chiến quốc vào năm 350 TCN

Nước Tần phần lớn nằm ở châu thổ sông Vị, nơi người Khuyển Nhung đã huỷ diệt nền văn minh Chu và buộc Chu Bình Vương phải dời đô vào năm 770 TCN. Tần là một trong 17 nước nhỏ tạo thành nền văn minh Chu, và bị các nước khác coi là ở phía dưới, bán khai, bởi vì nó thu hút nhiều người Khuyển Nhung. Tần còn giữ được tinh thần thượng võ và tính mạnh mẽ của những người chăn thả du mục, và Tần là cầu nối thương mại giữa nền văn minh Chu và các vùng đất du mục ở Trung Á, một nền thương mại sẽ góp phần vào sự giàu mạnh của Tần.

Trong thời Chiến Quốc, Thương Ưởng, một người ủng hộ trường phái Pháp gia, trở thành thừa tướng của nước Tần. Với tư cách thừa tướng, Thương Ưởng đã bắt đầu tổ chức nhà nước Tần theo các nguyên lý của Pháp gia. Ông thuyết phục vua Tần áp dụng luật pháp cho mọi người dân. Với việc này, ông ủng hộ việc sử dụng người có thực tài hơn là áp dụng cha truyền con nối. Ông thưởng cho những người can đảm ngoài mặt trận. Ông không khinh thường thương nghiệp của Khổng giáo mà khuyến khích thương mại và lao động. Ông khuyến khích chế tạo vải vóc để trao đổi với các nước khác. Ông đe doạ bắt làm nô lệ bất kỳ một người nào đủ sức khoẻ mà không chịu làm việc. Và ông khuyến khích nhập cư: ông mời những người tài năng và học thức từ nước khác đến Tần, ông trao cho những người nông dân tới từ nước khác một mảnh đất hoang, hứa miễn đi lính cho họ.

Rất nhiều người từ nước khác đến Tần, làm tăng sức dân của Tần và sản xuất lương thực và làm quân đội của nó mạnh mẽ thêm. Quy mô của quân đội đã trở nên lớn hơn – quân đội không còn là những đội quân trong tay tầng lớp quý tộc nữa. Với việc những người dân thường đổ xô vào quân đội Tần, Tần vương đã có thể giảm bớt quyền lực của giới quý tộc và địa chủ. Trong một chiến dịch mang tính cách mạng, vua Tần chia các lãnh địa bên trong của mình thành các quận huyện được quản lý bởi các quan chức được chỉ định hơn là bởi tầng lớp quý tộc – trong khi việc phân chia quyền lực của giới quý tộc ở các nước khác dưới thời nhà Chu chỉ được tiến hành một cách tuần tự.

Đáng chú ý, trường phái Pháp gia của nhà Tần khuyến khích cách đánh trận thực tế và tàn nhẫn.[3] Trong thời Xuân Thu, một tư tưởng được chấp nhận rộng rãi là trong chiến tranh không được hành xử một cách tiểu nhân, các tướng chỉ huy tôn trọng những gì họ tin là quy tắc vàng trên chiến trường.[4] Một ví dụ điển hình là khi Tấn Tương công đánh nhau với nước Sở trong thời Chiến Quốc, ông từ chối một cơ hội để tấn công địch khi họ đang băng qua sông. Sau khi quân Sở băng qua sông và dàn trận, Tấn Tương công bị đánh bại. Sau đó, khi các quân sư của ông trách ông vì sự lịch sự quá mức với kẻ thù, ông vặn lại, "Hiền nhân không đè bẹp kẻ yếu đuối, cũng không ra lệnh tấn công cho đến khi kẻ thù hình thành hàng ngũ của họ".[4]

Nhà Tần không coi trọng điều này, tận dụng điểm yếu của đối phương để giành thắng lợi. Một nhà quý tộc ở nước Ngụy đã chỉ trích nước Tần là "tham lam, ngoan cố, hám lợi, không hề chân thành. Nước Tần không biết gì về các quy tắc, cách hành xử trong các mối quan hệ, đạo đức, và nếu thấy có lợi, họ sẽ từ bỏ những mối quan hệ thân thiết của họ như những con thú".[5] Vì trường phái Pháp gia này, cộng thêm việc lãnh đạo hiệu quả, sử dụng nhân tài từ các nước khác, và ít có sự phản kháng từ trong nước, khiến nước Tần trở nên hùng mạnh.[6]

Khi Tần Hiếu công chết, Thương Ưởng bị bỏ lại mà không có sự bảo vệ nào ở triều đình. Những kẻ thù ghen tức và đói quyền lực trong triều đình hành quyết Thương Ưởng, nhưng sự giàu mạnh và sức mạnh của Tần vẫn còn đó. Các vị vua đời sau của Tần nhận ra những lợi ích mà biến pháp của Thương Ưởng đem lại. Do đó vị vua kế nghiệp Tần Hiếu công là Tần Huệ Văn công vẫn duy trì biến pháp và chỉ giết Thương Ưởng để xoa dịu giới quý tộc. Quân Tần bắt đầu giành thắng lợi trong những trận đánh lớn. Năm 311 TCN, Tần mở rộng về phía nam chống lại những kẻ du mục, và ở đó họ lập ra thành phố Thành Đô. Năm 256 TCN, và Tần mở rộng tới lãnh thổ vốn thuộc nhà Chu - một vùng xung quanh Lạc Dương gồm khoảng 30.000 người và 36 làng. Một hoàng tử nhà Chu phản công, gắng sức chiếm lấy ngôi nhà Chu cho mình. Quân đội Tần đánh bại ông ta, và nhà Chu chấm dứt.

Xâm chiếm các nước thời Chiến Quốc

Cuối thời Chiến Quốc, còn lại 7 nước chính tranh giành quyền lực là Triệu, Ngụy, Hàn, Sở, Yên, Tề, Tần. Những người cai trị những nước này đều xưng vương thay vì tước hiệu nhỏ hơn ở giai đoạn trước. Tuy vậy, không ai khẳng định rằng mình nắm "Thiên mệnh" như là những vị vua nhà Chu từng nói.

Năm 246 TCN, Triệu Chính, con trai 13 tuổi của Tần Trang Tương vương kế ngai vàng. Sau 16 năm cai trị, Tần vương Chính bắt đầu cho tiến hành những chiến dịch xâm chiếm cuối cùng.

Năm 230 TCN, Tần xuất quân đánh Hàn. Hàn từng bị Tần đánh bại nhiều lần, lại là nước nhỏ yếu nhất trong 7 nước, nên là nước đầu tiên bị diệt. Hàn vương An sợ hãi, vội thu hết sổ sách, địa đồ trong nước sang đầu hàng nộp đất.

Năm 229 TCN, Tần vương Chính ra lệnh điều quân lên đánh nước Triệu. Tướng Triệu khi đó là Lý Mục đẩy lui được quân Tần. Tần vương bèn dùng kế ly gián, sai người đút lót cho gian thần nước Triệu là Quách Khai, xúi Quách Khai nói rằng Lý Mục đang có âm mưu tạo phản. Triệu U Mục vương nghe lời gièm pha, bèn giết chết Lý Mục. Tần chớp thời cơ Lý Mục chết và nước Triệu bị động đất vào năm 229 TCN để dồn ép quân Triệu đến đường cùng. Năm 228 TCN, quân Tần chiếm kinh thành Hàm Đan, bắt sống Triệu vương Thiên.

Năm 227 TCN, sau khi bị Kinh Kha ám sát hụt, Tần vương Chính hạ lệnh cho quân Tần dưới sự chỉ đạo của Vương Tiễn và phó tướng Mông Vũ tấn công vào đất Yên. Yên vương trong thế bị dồn ép đã giết thái tử Đan (người đã ra lệnh cho Kinh Pha ám sát Triệu Chính), dâng thủ cấp để cầu hòa. Quân Tần chấp nhận lời cầu hòa và không xâm lược Yên trong vòng 3 năm tiếp theo.

Năm 225 TCN, Vương Bí chỉ huy quân Tần đánh kinh đô Đại Lương của Ngụy cho quân dẫn nước sông Hoàng Hà làm ngập thành, khiến hàng vạn binh lính và dân thường thiệt mạng. Ngụy vương Giả không chống nổi phải ra hàng.

Năm 222 TCN, quân Tần dưới sự chỉ huy của Vương Bí tấn công vào Liêu Đông, tiêu diệt phần tàn dư của quân Yên từ trận chiến trước, bắt giữ Yên vương Hỉ và đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nước Yên.

Năm 221 TCN, Triệu Chính lấy cớ Tề vương Kiến đem 30 vạn quân phòng thủ ở biên giới phía tây là hành động gây hấn, bèn sai Vương Bí mang quân từ nước Yên tiến thẳng xuống phía nam tiến vào kinh đô Lâm Truy. Nước Tề suốt mấy chục năm không động binh đao, dân quen liềm hái hơn cung nỏ, vì vậy thấy quân Tần hùng hậu tiến vào thì mau chóng tan vỡ. Tề vương Kiến quyết định không gây chiến và đầu hàng quân Tần. Cả sáu nước hoàn toàn bị thôn tính.

Thời kỳ Chiến Quốc kết thúc. Triệu Chính trở thành vua của toàn Trung Hoa. Ông lấy tước hiệu là Thuỷ Hoàng Đế (始皇帝), trở thành hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa, vượt qua các thành tựu của các vị vua nhà Chu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhà_Tần http://www.historytoday.com/michael-loewe/china%E2... http://www.paulnoll.com/China/Tourism/history-Grea... https://www.chinahighlights.com/greatwall/history/... https://books.google.com/books?id=5PL9hSUiVEoC&pri... https://books.google.com/books?id=AD5Lx-kJsMEC&pri... https://books.google.com/books?id=Wbd-Eonn70cC&pri... https://books.google.com/books?id=cKh2KL5LqEsC&pri... https://books.google.com/books?id=gFEK1pLNqqMC&pri... https://books.google.com/books?id=xdVkzs6iI1YC&pri... https://web.archive.org/web/20170417235658/http://...